Nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của các DN, góp phần giảm nợ xấu của các DN, trong thời gian
qua, Chính phủ đã triển khai thực hiện một số giải pháp: (1) Chính sách miễn
giảm thuế, phí (thuế thu nhập DN, thuế giá trị gia tăng, thuế sử dụng đất...)
đã hỗ trợ DN có thêm nguồn lực để duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối
tượng áp dụng rộng rãi, gồm các DN được hưởng lợi trực tiếp và cả các DN được
hưởng lợi gián tiếp thông qua quan hệ mua bán - đầu vào, đầu ra (hơn 200.000 DN
được gia hạn thuế giá trị gia tăng, với số tiền trên 11.000 tỷ đồng; giải quyết
nợ thuế thu nhập cho trên 8.200 DN với số tiền 347 tỷ đồng; giảm 50% thuế cho
hơn 3.000 DN với số tiền 339 tỷ đồng; giải quyết thuế môn bài cho hơn 40.000 hộ
đánh bắt hải sản...). (2) Các ngân hàng thương mại đã rà soát các khoản vay,
tập trung tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên, giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ giãn
nợ và đơn giản hoá thủ tục vay cho DN có kết quả kinh doanh và phương án kinh
doanh tốt; lãi suất cho vay đối với lĩnh vực ưu tiên giảm mạnh xuống 13%. (3)
Các bộ, ngành đã xây dựng và triển khai nhiều chương trình xúc tiến thương mại,
hỗ trợ các DN, cơ sở sản xuất, kinh doanh, củng cố, xây dựng và mở rộng thị
trường trong nước và xuất khẩu.
Đối với nợ xấu tại khu vực
DNNN để giải quyết lại càng khó khăn hơn. Khác với các DN tư nhân, vốn có thể
dễ dàng bán tài sản hoặc nhượng cổ phần cho các DN khác để có tiền trả nợ ngân
hàng nhằm tránh phá sản, các DNNN rất khó có thể bán tài sản hoặc cổ phần nhà
nước theo giá thị trường trong giai đoạn kinh tế suy thoái. Vì vậy, các khoản
nợ mà các DNNN vay thường phải trông đợi vào sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước
dưới các hình thức xóa nợ, khoanh nợ, chuyển nợ, bổ sung vốn…
- Tranh thủ sự ủng hộ của các định
chế tài chính và tạo điều kiện cho nhà Từ kinh nghiệm thực tế của thế giới cho
thấy, để giải quyết vấn đề nợ xấu trong nền kinh tế phải mất một thời gian khá
dài từ 5 đến 10 năm, do vậy đối với Việt Nam, chúng ta cần phải có một lộ trình
mang tính chiến lược cụ thể thì mới có thể giải quyết tận gốc rễ của vấn đề.
Cần xử dụng đa dạng các biện pháp can thiệp, cả vai trò hỗ trợ của Nhà nước và
sự chủ động của các ngân hàng thương mại, trong sự phối hợp với các DN:
- Tăng cường vai trò điều tiết,
quản lý, điều hành của Chính phủ với mục tiêu chủ yếu là ổn định kinh tế vĩ mô,
tạo thuận lợi cho môi trường kinh doanh của các DN.
- Theo kinh nghiệm nhiều nước, cần
lập Ủy ban Nhà nước xử lý nợ, có sự tham gia của NHNN, Bộ Tài chính và các cơ
quan giám sát khác nhau, tạo điều kiện cho Nhà nước chủ động can thiệp để hỗ
trợ thị trường. Cần quan trọng nhất là công khai minh bạch quá trình xử lý này,
với sự chỉ đạo thống nhất, tránh bị lợi dụng, từng bước đạt chuẩn nợ xấu theo
thông lệ quốc tế. Hình thành công ty mua bán nợ xấu quốc gia, có chức năng,
nhiệm vụ xử lý nợ xấu thông
qua hoạt động mua bán hoặc chứng khoán hoá tài sản xấu của các DN. Các công ty
này sẽ xác định tổng tài sản xấu cần xử lý, xác định giá trị thị trường tài sản
xấu, xây dựng phương án thực thi, tìm kiếm đối tác và tiến hành thanh lý; có
thể chuyển quyền chủ nợ đối với DN (nằm trong danh mục nợ xấu) thành quyền cổ
đông của DN, sau đó chuyển
nhượng cổ phần để thu về tiền mặt; các khoản nợ tại khu vực DNNN có thể chuyển
hoàn toàn sang cho công ty mua bán nợ này. Khi đó, bằng các giải pháp tập
trung, công ty mua bán nợ quốc gia có thể dễ dàng trao đổi với bên chịu trách
nhiệm tái cấu trúc các DNNN để xử lý các khoản nợ này theo hướng bán các gói nợ
cho các tổ chức tín dụng hoặc chuyển đổi các gói nợ thành cổ phần.
- Các ngân hàng sử dụng các công cụ
dự phòng của mình, cũng như việc tái cơ cấu DN và ngân hàng để có tình trạng nợ
xấu được lành mạnh hơn, vấn đề này có thể xử lý để giảm nhẹ một phần tình trạng
nợ xấu; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng thương mại
nhỏ, yếu kém hợp nhất, sáp nhập với các ngân hàng lớn, sử dụng tiềm lực tài
chính của các ngân hàng lớn để xử lý nợ xấu.
- Cần nắm chắc tình trạng nợ xấu
với số liệu chính xác để xử lý đúng thực tế bằng các giải pháp kịp thời, sát
thực (số liệu của hệ thống ngân hàng còn có sự khác biệt lớn giữa báo cáo của
các DN, đánh giá của NHNN và đánh giá của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia và
các chuyên gia, các tổ chức quốc tế).
đầu tư trong và ngoài nước tham gia
vào quá trình xử lý nợ xấu. Tham vấn kinh nghiệm của các định chế tài chính lớn
(IMF, WB...) trong quá trình cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng, đồng thời
tranh thủ nguồn vốn của các tổ chức này nhưng
không chấp nhận điều kiện ràng buộc để tránh sự tác động, can thiệp vào các
quyết sách điều hành kinh tế; yêu cầu các ngân hàng thương mại công bố cụ thể
nợ xấu và khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân góp vốn hoặc tham gia đấu thầu,
thanh lý tài sản đảm bảo của các ngân hàng yếu kém để thu hồi tiền mặt; cho
phép ngân hàng thương mại bán trực tiếp các khoản nợ xấu cho nhà đầu tư nước
ngoài: nới rộng giới hạn
sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong khoảng thời gian
nhất định (từ 10 đến 20 năm), nhưng yêu cầu phải giảm dần tỷ lệ sở hữu trong
các năm tiếp theo thông qua việc bán lại cổ phần cho cổ đông trong nước.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét